Viêm da cơ địa hay còn gọi là bệnh chàm là bệnh lý biểu hiện cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính. Bệnh thường phát bệnh trong những năm đầu đời (thường gặp nhất trong hai tháng đầu, bé gái gặp nhiều hơn bé trai. Rất hiếm bệnh nhân phát bệnh khi trưởng thành.

 Bệnh viêm da cơ địa hay gặp ở trẻ em

Ảnh minh họa: Viêm da cơ địa hay gặp ở trẻ nhỏ

Những biểu hiện khi mắc bệnh

Giai đoạn cấp tính: Biểu hiện bệnh khi cấp tính là đám da đỏ ranh giới không rõ, các sẩn và đám sẩn, mụn nước tiết dịch, không có vẩy da. Da bị phù nề, chảy dịch, đóng vảy tiết. Các vết xước do gãi tạo vết trợt, bội nhiễm tụ cầu tạo các mụn mủ và vẩy tiết vàng. Bệnh thường khu trú ở trán, má, cằm, nặng hơn có thể lan ra tay, thân mình.

Nguyên tắc điều trị bệnh viêm da cơ địa

- Chống khô da bằng các thuốc dưỡng ẩm.

- Ðiều trị bằng bôi corticosteroid trong thời gian ngắn, sau đó duy trì bôi tacrolimus + dưỡng ẩm thời gian dài để tránh tái phát bệnh.

- Chống nhiễm tụ cầu bằng thuốc kháng sinh bôi hoặc uống.

- Kháng histamin chống ngứa.

Giai đoạn mạn tính: Da dày thâm, ranh giới rõ, liken hóa, các vết nứt đau; đây là hậu quả của việc bệnh nhân ngứa gãi nhiều. Thương tổn hay gặp ở các nếp gấp lớn, lòng bàn tay, bàn chân, các ngón, cổ, gáy, cổ tay, cẳng chân.

Triệu chứng bệnh: khô da, ban đỏ - ngứa tạo thành vòng xoắn bệnh lý: ngứa - gãi - ban đỏ - ngứa... Ngoài ra, người bệnh còn có các triệu chứng khác như viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc mắt và viêm ngứa họng, hen. Các biểu hiện bệnh lý như chứng vẽ nổi (dermographism), bệnh vẩy cá thông thường, dày sừng nang lông... có thể gặp trên bệnh nhân viêm da cơ địa.

Vị trí hay gặp mặt, trán, mặt gấp các chi, gáy, mi mắt, cổ tay, mu tay, mu chân, trường hợp nặng có thể lan toàn thân.

Yếu tố nguy cơ làm bệnh khởi phát

Các dị nguyên trong không khí như các chất thải của rệp nhà, len dạ... Ngoại độc tố của tụ cầu vàng (Staphylococus aureus) đóng vai trò siêu kháng nguyên kích thích hoạt hóa limpho T và đại thực bào. Dị ứng nguyên nội sinh (endogenous antigens): trong huyết thanh bệnh nhân có kháng thể IgE có thể kích thích IgE hoặc limpho T đáp ứng viêm. Thức ăn: Một số thức ăn cũng có thể làm vượng bệnh như trứng, sữa, lạc, đậu tương, cá, bột mỳ... ngoài ra, giảm chức năng hàng rào bảo vệ của da cùng với giảm lớp ceramic trên bề mặt da làm cho da dễ bị mất nước gây khô da. Mùa hay bị bệnh (thường nặng hơn vào mùa thu đông, nhẹ vào mùa hè).

Phát hiện bệnh bằng cách nào?

Chẩn đoán bệnh không khó khăn, dựa trên các triệu chứng lâm sàng, nồng độ IgE  trong máu thường tăng cao. Để chẩn đoán viêm da cơ địa, cần có các tiêu chuẩn sau:

Có 4 tiêu chuẩn chính: Ngứa da, viêm da mạn tính và tái phát, vị trí thương tổn điển hình (ở trẻ em: chàm khu trú ở mặt, vùng duỗi. Đối với trẻ lớn và người lớn: dày da, lichen vùng nếp gấp); tiền sử cá nhân hay gia đình có bệnh cơ địa dị ứng (như hen, viêm mũi dị ứng, viêm da cơ địa).

Các tiêu chuẩn phụ: khô da; viêm môi; đục thủy tinh thể; viêm kết mạc mắt và kích thích ở mắt tái phát; mặt đỏ, tái; dị ứng thức ăn; chàm ở bàn tay; dễ bị nhiễm khuẩn da và hay tái phát; ngứa khi ra mồ hôi; quầng thâm quanh mắt; vẩy phấn trắng; giác mạc hình chóp; các thương tổn khác giống dày sừng nang lông...

Điều trị tùy giai đoạn của bệnh

Nếu không được điều trị, bệnh tiến triển trong nhiều tháng, nhiều năm. Khoảng gần 50% bệnh khỏi khi ở tuổi thiếu niên, nhưng cũng nhiều trường hợp bệnh tồn tại lâu trong nhiều năm cho đến tuổi trưởng thành. Nhiều bệnh nhân bị hen hoặc các bệnh dị ứng khác.

Khi bị viêm da cơ địa, tuyệt đối tránh chà xát, gãi. Đồng thời bôi thuốc và dùng thuốc uống chống ngứa cho bệnh nhân. Bôi kem dưỡng ẩm rất cần thiết vừa có tác dụng chống khô da vừa có tác dụng tránh ngứa, hạn chế tái phát. Kem dưỡng ẩm phải được sử dụng hằng ngày và dùng lâu dài sau khi triệu chứng đã được cải thiện. Loại trừ và tránh các chất gây dị ứng như đề cập ở trên. Không dùng đồ len dạ trực tiếp vào da của trẻ. Bố mẹ và những người chăm sóc trẻ cũng cần tránh dùng đồ len dạ khi tiếp xúc với trẻ.

Điều trị viêm da cơ địa cần rất cẩn trọng, có sự hợp tác rất chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh, đối với trẻ nhỏ là bố mẹ bệnh nhân. Tùy theo giai đoạn bệnh cấp tính, bán cấp hay mạn tính mà cho thuốc bôi phù hợp.  

Sưu tầm

 

Bình luận